Sau bài về chống lún do kỹ sư
Nguyễn Văn Ðực - tác giả cuốn "Mấy
quan điểm về nền móng” NXB Khoa học Kỹ
thuật - tư vấn đăng trên số báo 25, SGTT nhận
được thêm một số ý kiến về sử dụng
cừ tràm làm móng và so sánh với cọc bê tông. Kỹ sư
Nguyễn Văn Ðực sẽ tư vấn tiếp về
vấn đề này.
So
sánh cừ tràm với cọc bê tông cốt thép
Cọc
bê tông cốt thép ví như xe ô-tô, cừ tràm ví như xe
gắn máy. Ôtô có ưu điểm chở được
nhiều người, dễ đi xa hơn; xe gắn máy nhỏ
gọn, cơ động trên đường nhỏ hẹp,
chi phí thấp. Do đó, tùy trường hợp mà dùng
ôtô hay xe máy để đạt hiệu quả hơn.
Khi "tai nạn" xảy ra thì cần xem lại năng
lực, sự cẩn trọng của người lái hơn
là phương tiện.
Khi
dùng móng cừ tràm phải tính toán kỹ thiết kế
và cấu tạo đúng, dứt khoát không được
gian dối trong thi công. Bởi tất cả các “tai nạn”
lún sụt là do con người chứ không vì cừ tràm.
Thường với các công trình dưới 5 tầng, xây
chen trong các hẻm nhỏ thì việc đóng, ép cọc
bê tông cốt thép sẽ khó khăn và tốn kém hơn dùng
cừ tràm. Nếu công trình lớn, giao thông thuận tiện
thì cọc bê tông kinh tế hơn.
Ứng
dụng cừ tràm
Theo
kinh nghiệm, nên sử dụng cừ tràm ở những
vùng đất yếu, đất bùn, có sức chịu tải
thấp. Với cừ dài 4 - 5m, đường kính gốc
10 - 12cm, ngọn 6 - 8cm và mật độ 25 cây/m² thì sức
chịu tải của đất đạt từ 0,6 - 0,9
kg/cm². Về mặt lý thuyết, có nhiều ý kiến
khác nhau nhưng nên làm cho móng và cừ tràm kết hợp
thành một khối "rắn". Vì trong đất bùn,
cừ tràm có tác dụng liên kết với móng tạo
thành một khối để chuyển lực xuống sâu
hơn 4 - 5m (đáy của khối cừ tràm). Từ đó
khối cừ tràm đủ sức chịu lực, chống
cắt do các cung trượt gây ra ngay tại đáy móng.
Khi móng bị phá, đất dưới đáy móng hình
thành cung trượt, do đó số lượng và
đường kính cừ tràm phải đủ để
chịu lực cắt của cung trượt này (xem hình
1)
Cách
đóng cừ tràm
Cần
thiết phải đóng cừ rộng ra ngoài diện tích
móng, mỗi cạnh từ 0,1 - 0,2m để tăng sức
chống cắt của cung trượt. Thí dụ điển
hình là tại công trình chợ Tân Quy Tây, trụ sở một
công ty xây dựng ở đường Xô Viết Nghệ
Tĩnh và nhất là lô IV cư xá Thanh Ða, diện tích
đóng cừ tràm bị thu hẹp đáng kể, đóng
lùi sâu vào bên trong cạnh móng dẫn đến lún và
lún lệch (xem hình 2)
Có
người “cầu kỳ” đóng chung quanh trước
rồi mới đóng dần vào trong - ý muốn tạo sự
nén chặt đất trong phạm vi đóng cừ. Thực
chất không tác dụng gì mà chỉ cực cho việc thi
công, vì cừ không lèn chặt được đất bùn.
Về
độ sâu của móng cừ tràm, nhiều người
có thói quen đặt đầu cừ tràm phải nằm
dưới mực nước ngầm thấp nhất. Ðiều
này đưa đến việc phải đặt đáy
móng khá sâu, gây bất lợi cho thi công, nhất là vào
mùa mưa. Các tài liệu địa chất cho thấy:
ở vị trí cao hơn mạch nước ngầm, đất
vẫn ẩm ướt, độ bão hòa cao, do đó
đủ độ ẩm để đầu cừ tràm
không bị khô và sẽ không bị mục. Vì vậy, tùy
theo chất đất bên trên mực nước ngầm,
có thể chọn đầu cừ tràm cao hơn mực
nước ngầm, miễn sao đầu cừ luôn ẩm
ướt. Ở đất sét, nước mao dẫn có
thể lên đến 5 - 6m.
Một
thói quen cần tránh khi thi công là lấy cát phủ lên
đầu cừ sau khi đóng. Nhiều người đóng
xong cừ là phủ lên đầu cừ một lớp cát
dày. Khi làm như vậy, dưới áp lực đáy móng,
cát có thể chui xuống bùn hay len vào các kẽ rỗng
bên trên của lớp bê tông lót. Theo dòng chảy, cát cũng
có thể chuyển dịch. Hoặc khi công trình kề bên
đào móng, cát sụt lở... đều là những
nguyên nhân gây lún hay lún không đều. Cách khác cũng
thường gây lún do “xem thường” lớp bê tông
lót, cứ sắp đá 4 - 6 xuống và trải hồ vữa
xi măng bên trên, cán đều. Lúc này, dưới áp lực
đáy móng, dẫn đến kết cấu của lớp
lót này không vững, biến dạng và gây lún sụt. Như
vậy cần thiết phải tạo lớp lót bằng
bê tông đá 1-2 và đổ trực tiếp trên đầu
cừ để tạo liên kết thành một khối.